in

Chuyên gia: Sự sụp đổ của SVB “có lợi” cho hệ thống ngân hàng Việt Nam

Các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư của SVB cùng với tiền gửi tại ngân hàng giảm đáng kể là những yếu tố chính dẫn đến tình trạng SVB nhanh chóng mất khả năng thanh toán. Nhưng điều này rất khó xảy ra hay có ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng Việt Nam.

VinaCapital phân tích, các ngân hàng Việt Nam cũng nắm giữ trái phiếu chính phủ trên bảng cân đối kế toán, ngân hàng ở hầu hết các nước cũng vậy. Tuy nhiên, trái phiếu chính phủ chỉ chiếm khoảng 6% tổng tài sản của các ngân hàng niêm yết của Việt Nam, và trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn (HTM) chiếm chưa đến 2% tổng tài sản. Con số này thấp hơn nhiều so với mức 5-10% của các ngân hàng Mỹ điển hình và thấp hơn nhiều so với mức khoảng 45% tài sản của SVB nằm ở trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn trên bảng cân đối kế toán.

Theo ông Michael Kokalari, lượng tiền gửi sụt giảm của SVB đã khiến ngân hàng này phải bán trái phiếu kho bạc và chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp để huy động tiền mặt trả cho người gửi tiền và điều này thể hiện thành các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư chứng khoán của họ. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam đảm bảo rằng tiền gửi luôn được bảo vệ trong các cuộc khủng hoảng ngân hàng trước đây. Do đó, người gửi tiền ở Việt Nam được khuyến nghị không rút tiền đột ngột khi một ngân hàng tại Việt Nam gặp khó khăn bởi Chính phủ sẽ đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền nếu ngân hàng đó sụp đổ.

Sau tất cả những điều đề cập như trên, ông Michael Kokalari cho rằng nguy cơ sụp đổ của một ngân hàng ở Việt Nam, như trường hợp SVB, là rất thấp. Bởi, những sự việc tác động lên SVB không có khả năng xảy ra (nghĩa là người gửi tiền không được khuyến khích rút tiền đột ngột từ ngân hàng khi có khủng hoảng) và các khoản lỗ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư của các ngân hàng Việt Nam không đủ lớn để tác động đáng kể đến khả năng sinh lời hoặc khả năng thanh toán.

Ông Michael Kokalari cũng cho rằng sự sụp đổ của SVB dường như không có ảnh hưởng đáng kể nào đến nền kinh tế Việt Nam, mặc dù Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với thặng dư thương mại tương đương khoảng 20% GDP. Xuất khẩu sang Mỹ đã chậm lại trước khi SVB sụp đổ, chủ yếu là do hàng tồn kho của các nhà bán lẻ tại Mỹ lớn.

Vì vậy, VinaCapital không tin rằng sự sụp đổ của SVB sẽ làm cho xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng trưởng chậm thêm. Mặc dù nhu cầu đối với các sản phẩm “Made in Vietnam” khó có thể phục hồi cho đến nửa cuối năm 2023, bất chấp các diễn biến tiếp theo trong lĩnh vực ngân hàng ở Mỹ.

Phản ứng của chính phủ Mỹ đối với sự sụp đổ của SVB đã khiến lãi suất của Mỹ giảm và hạ kỳ vọng tăng lãi suất, từ đó tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) giảm 100 điểm cơ bản lãi suất điều hành.

VinaCapital nhận thấy rằng Chương trình tài trợ có kỳ hạn (BTFP) được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đưa ra để đối phó với các vụ sụp đổ tương tự SVB sẽ có thể tạo thêm thanh khoản mới cho đồng USD, điều này sẽ tiếp tục giảm áp lực lãi suất và làm mất giá đồng USD trong những tháng tới.

Lãi suất ở Mỹ giảm và đồng USD yếu đi sẽ dẫn đến thanh khoản của các ngân hàng Việt Nam được cải thiện, cũng như lãi suất có điều kiện để hạ thấp hơn ở Việt Nam và đã được thể hiện rõ thông qua việc giảm lãi suất điều hành như đã nêu ở trên.

Với trường hợp của Credit Suisse, theo ông Michael Kokalari, ngân hàng này cũng đang phải đối mặt với các vấn đề thanh khoản nghiêm trọng. Tuy nhiên, nó cũng được giải quyết bằng việc Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ cung cấp thanh khoản cho ngân hàng này và cũng gây áp lực khiến mặt bằng lãi suất toàn cầu giảm. Điều này sẽ mang lại nhiều thanh khoản hơn cho nền kinh tế toàn cầu cũng như gián tiếp mang lại lợi ích cho nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam.

Một trong những lý do quan trọng nhất mà VinaCapital cho rằng câu chuyện của SVB và Credit Suisse cuối cùng sẽ có lợi cho Việt Nam là vì cả hai đều có khả năng dẫn đến việc VND tăng giá so với USD, do đó sẽ cho phép NHNN tái tích lũy một lượng đáng kể dự trữ ngoại hối trong năm nay.

Điều quan trọng nữa là trong những tháng gần đây, thị trường chứng khoán toàn cầu đã dự đoán Fed sẽ “quay đầu” sau các đợt tăng lãi suất mạnh gần đây và sẽ khiến các tài sản rủi ro hấp dẫn hơn, bao gồm cả giá trị tiền tệ của các thị trường đang phát triển.

Theo ông Michael Kokalari, điều này sẽ cho phép NHNN và các ngân hàng thương mại Việt Nam hạ lãi suất và sẽ làm cho thị trường chứng khoán trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.

Theo Ngọc Hải – CafeF

Tài chính đất đai: Nhiều quy định đột phá

Nỗi ám ảnh của các nhà đầu tư lớn nhất thế giới: Không phải lãi suất tăng cao, ngành ngân hàng lao đao hay suy thoái